Vì Sao Phải Đứng Dưới Cờ Máu
CSVN Mới Được Yêu Nước Và Chống Giặc Tàu Xâm Lược Hai Đảo Hoàng Sa - Trường
Sa? MƯỜNG GIANG .
Việt Báo Thứ Sáu, 12/28/2007, 12:02:00 AM
Suốt 75 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên
lãnh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng
biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi
một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến : Đồn Hiền Lương
và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo
cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì Lá
Cờ được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các
toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định
3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay
đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền
giới tuyến. Thế là trận giặc Chọi Cờ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà
phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định
hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 chia cắt, cả
hai phía đã thay đổi cở cờ tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột
cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn
canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm
mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có thể muốn người
khác phải theo ý mình , đứng chung dưới một ngọn cờ mà trong thâm tâm của
họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như
lá cờ máu của Cộng Đảng VN.
Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802
là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà
từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa
các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều
tác phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại
Chí của Phan Huy Chú, Du Địa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ
Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.. Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, còn tìm thấy
nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả
các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học
giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất
thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai
mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN
như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị An Nam hay Giao Chỉ .Thời
Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong
quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang
Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam.
Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng
theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược
tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống
nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi
sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu
cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch),
có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba
tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới
chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai
Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận
quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy
nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được
cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1 + Cờ Đỏ Sao Vàng Của Đảng CSVN:
Về lá quốc kỳ VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai lá
cờ: Đảng cọng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại Hà Nội,
xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh
Phúc Kiến. Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng giống cờ nước VN xã
nghĩa có vẻ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng Kỳ
(Cờ Đỏ), do Nguyễn Hửu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940.
Tuy nhiên Lá Cờ Đảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ
Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là
đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng.
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện
Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao
Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài
thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Đây là những lá cờ của ngoại
bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải tôn trọng, trừ phi
họ bị áp buộc và khủng bố .
2 + Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ:
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ
ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng
chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà
Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy
đất nước VN bị cọng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó, trên khắp mọi nẻo
đường hải ngoại, hơn ba triệu ngươì Việt tị nan cọng sản, vẫn theo truyền
thống của ông cha, trân quý và chấp nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, như một biểu
tượng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn định
cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu
chính quyền sở tại, công nhận Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VN, như là một biểu
tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Đồng VN tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính
quyền tại Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định công nhận Lá
Quốc Kỳ VN Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của người Việt, trên đường đấu
tranh quang phục đất nước.
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm Quốc Kỳ Việt Nam của tác giả
Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan
Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp,
để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần : Gia Định, Biên Hòa và Định Tường,
đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp
yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo
nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản
phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn đại tự
Đại Nam Khâm Sứ . Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng
trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm
lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần
Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc
đỏ theo hình quẻ Ly (–-)trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài
Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, DArgenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập
lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh
đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân
mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp, đồng
thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo
trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả,
khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp
đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó
Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như
tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực
lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách
kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng Nam
Phần VN , để thay thế cái gọi là Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị , mà Pháp và bọn Việt
Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc
Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau:
Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật
Giao Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập,
lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Đổ Quang Giai (Miền
Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện
của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại Phòng
Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba
Sọc Đỏ, làm Quốc Kỷ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại,
đề cập tới trong tác phẩm Con Rồng Việt Nam (Le Dragon DAnnam), xuất bản năm
1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long.
Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn
Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp,
thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng
ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả
trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên
đàng.
Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng
Sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn
Xuân, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh.
Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng
của đệ tam cọng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng
là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước
cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế
công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày
30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị
cả nước.
Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng
7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vỷ tuyến
17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt,
bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người
Việt lại bỏ nước ra đi vì không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cọng sản,
cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng
2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng
nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân
tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy
huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn
ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần), giữ chức
Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao
phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát Thanh
Niên Hành khúc của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự
cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu
tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ nghĩa,
chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước
và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát
nào khác, dù bài VN-VN của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề
nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm Việt Nam Nhân Chứng,
cựu tướng Trần Văn Đôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác
giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận
trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca,
cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào
năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong
quân đội Pháp , thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị
sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ
Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của của các giáo phái .. mới được
mời họp với ý kiến và quyết định.
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng
là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận
chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt
chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong
lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ và bản quốc ca
hùng tráng, được thổi lên khi xung trận.
Quốc kỳ VN như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam
nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cọng sản
đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong
tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại với
nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Đó là cấp lãnh đạo tối cao nhất của
Cộng Đồng VN Tị Nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản
đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968),
mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định..
Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và
sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt
xương, máu và nước mắt Lính.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc
gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trền ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc),
Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị..
đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ,
Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã
gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới
đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân
trên lãnh thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo
dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH,
lại phải chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất
vào tay cọng sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những
người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng
mơ ước được Cộng Đồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá
Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào
cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.
Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn khoa
bảng trí thức xôi thịt, chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá
thối đất nước miền Nam, ùn ùn tìm đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại quốc.
Giờ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn sống nhờ mồ hôi nước mắt của người Việt Quốc
Gia nhưng cứ lại tiếp tục pha thối cộng đồng người Việt tị nạn, tuyên truyền
và bẽ cong ngòi bút, cứ đòi thay đổi lá cờ , làm lợi cho đế quốc CS đang cai
trị VN, hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo vào lúc cuối đời.
Trong lúc đó, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo
vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp Mỹ
và hậu phương bạc bẽo, có cơ hội chạy. Còn biết viết gì hơn, trước cảnh tượng,
những người đưo.c may mắn thoát được địa ngục trần gian, đầu thai trở lại
kiếp người. Nay hầu hết, mà trong số này có rất nhiều đấng HO, một thời sống
nhục nơi các hỏa lò, địa ngục của CS, cũng hồ hởi kéo nhau về quê hương đã
đổi mới. Thực chất, phần lớn chỉ để trả thù dân tộc , vinh qui bái tổ hay
tệ nhất như Nguyễn Cao Kỳ, công khai đầu hàng VC, bêu xấu danh dự của người
lính cũ, mà đượng sự có lúc nhờ đó, mới được vinh thân phì gia, sung sướng
một đời.
Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ
chạy? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp,
cho tới lúc tàn cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Đảo, Trần Quang
Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai,
Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa.. há không có phương tiện như Nguyễn Cao Kỳ, để
trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao ? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ sĩ nên
coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời.
Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp nhận
hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều chục năm nơi
tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi chung, vì hai chữ hy
sinh cao quý lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh , được tất cả mọi người từ dân
tới lính, thương mến trân trọng.
Trong khi nguyên thủ quốc gia bị cưởng bức từ chức, nhiều đại bàng tối cao
tại Sài Gòn tìm đủ mọi cách bỏ chạy để giữ mạng. Còn TT Dương Văn Minh thì
chuẩn bị đầu hàng giặc nhưng quanh thủ đô và khắp bốn phương tám hướng, tất
cả những đơn vị còn lại của VNCH, vẫn hiên ngang chiến đấu trong dơn độc.
Nên không ngạc nhiên khi được đọc được lời phê bình đầy trang trọng, của Sử
gia người Anh, Sir Edward S Creasy, qua danh phẩm Fifteen Decisive Battles
of The World , cho biết tầm quan trọng của một cuộc chiến, không phải chỉ
căn cứ vào số người chết, tù binh và chiến lợi phẩm. Nó được tính bằng thành
quả ngày hôm nay, do cuộc chiến thắng đem lại.
Vậy ta thử hỏi sau ba mươi hai năm chiến tranh chấm dứt (30/4/1975 - 30/4/2007)
kẻ chiến thắng là CS đã làm được những gì, để mang tới phúc lợi, no ấm cho
dân tộc VN ?. Trong thời gian đó, đất nước chúng ta có được độc lập tự do
hay không ? cứ nhìn kết quả mà không cần phải đơi câu trả lời.
Thật sự cho tới bây giờ, đất nước VN vẫn là một quê hương bị đọa đày tang
tóc khổ đau. Dân chúng đại đa số nghèo đói lạc hậu. Xã hội băng hoại, kỷ cương
tan nát, đạo đức suy đồi và oán thù chất ngất vì hố phân chia mọi thành phần
trong nước, càng lúc càng sâu thẳm không biết đâu mà so sánh. Trong lúc bọn
cán bộ viên chức đảng nhà nước, bọn Việt gian-Việt kiều cò mồi, bọn tư bản
đỏ trắng tại VN càng lúc càng giàu có vinh hiển tột cùng với tiền tỷ vàng
tạ, thì người dân cả nước từ nông dân, người đánh cá, cho tới kẻ lạo động,
gần như kiếm ăn từng bửa. Như vậy bảy mươi lăm năm qua, nói là đi làm cách
mạng để giải phóng nước nhà và người dân bị ngoại xâm kềm kẹp. Thế nhưng ba
mươi hai năm hòa bình, giờ tính lại sổ đời, nước vẫn bị ngoại bang thao túng,
không phải chỉ có Nga-Trung Cộng mà cả khối tư bản Mỹ, Nhật, Âu Châu, Nam
Hàn, Đài Loan-Singapore.. Còn người dân thì cuộc sống còn thua cả thời Pháp
Thuộc, nói chi tới Hai mươi năm VNCH.
Hơn ba mươi hai năm đổi đời rồi, cho dù Bắc Bộ Phủ có gian ngoan xảo trá
tới đâu, bọn Việt gian biển lận thế nào, thì người trong nước cũng như ở hải
ngoại, ai nấy đều hiểu tất cả tấn thảm kịch VN. Tất cả chỉ do bàn tay đẫm
máu của băng đảng Hồ Chí Minh dàn dựng và thao túng mà thôi.
Ba mươi hai năm nói là thống nhất nhưng Bắc-Nam cũng vẫn là Nam-Bắc. Lúc
nào cũng to mồm lớn miệng nói là tự do-độc lập thế nhưng mọi việc lớn nhỏ
của nước, đều do bàn tay tối cao của Liên Xô-Trung Cộng, nay lại thêm bàn
tay lông lá của lái súng Mỹ quyết định giùm.
Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Đức nhà Nguyễn vì thiển cận, không
chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như Nguyễn
Trường Tộ, Đinh văn Điền, Bùi Viện.. mà cứ chạy theo ôm chân người Tàu lúc
đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực dân Pháp đô hộ đày
đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt Cộng cũng đã bước vào lối
mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu trắng một cách tận tuyệt, để
có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn. Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm
mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái
vỏ phát triển tiến bộ, được sơn phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai
còn một chút hơi hám của con người, thấy ngó cũng phải đau lòng cho vận nước,
chỉ vì một gã Hồ Chí Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm vóc phải
tan hoang, không biết đến bao giờ mới được quang phục.
Ba mươi hai năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng dù ngày nay hình người có
thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên vết như
cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc Pó, rừng Bắc Sơn hay chui ra trong các
hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẩn đảng cọng sản là trên hết, còn nước thì nước xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy cả nước, đều là tài sản của đảng, của cán bộ nên cứ
ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới hậu quả di hại cho con
cháu mai sau.
Không ai muốn thấy cảnh máu đổ xương tan, xảy ra trên quê hương mình. Nhưng
người Việt quốc gia dù ở đâu và thuộc về thế hệ nào chăng nữa, đều đau lòng
trước cái tên thân thương của thành phố Sài Gòn nay bỗng dưng phải mang tên
Hồ Chí Minh phản tặc, một kẽ dâm hung cực ác, đứng đầu lịch sử.
Cũng không thể đứng nhìn đồng bào cả nước, nhất là phu nữ đã phải bán trôn
khắp thế giới để nuôi miệng, bán mạng để sống. Cũng không thể bắt người Việt
hải ngoại cứ đổ võ cho kẻ ăn ốc là bọn cọng sản và đám việt gian, việt kiều
tay sai năm vùng, bằng cách mỗi lần có thiên tai hoạn nạn, thì lại cứ nhân
danh này này nọ nọ, bắt đồng bào gửi tiền bạc về nước, để bọn lãnh đạo Bắc
Bộ Phủ vểnh râu làm giàu trên xương máu mồ hôi nước mắt của đồng bào tị nạn.
Cũng không thể để cho lá cờ máu và những tên quốc tặc, hiện diện tuyên truyền,
trong nhưng nơi chốn, có người Việt tị nạn sinh sống, mà điển hình là vụ tên
Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ Tặc tại Tiểu Sài Gòn, vào dịp Tết Kỷ Dậu
1999. Sau rốt cũng không cho VC tiếp tục lộng hành, toa rập với đám tư bản
bất lương Tây phương, Nam Hàn, Nhật Bản, Tàu Trắng và tàn độc nhất là Trung
Cộng, lũng đoạn kinh tế, phá nát kỷ cương và chia xén lãnh thổ VN
Bảy mươi lăm năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình
với cọng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường
gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên
ba mươi hai năm nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của
cọng sản, trừ bọn cò mồi không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa.
Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích
nô lệ của đảng cọng sản, để đòi lại những gì mà chúng ta đã mất, trong đó
quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
Chừng nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó đừng
hòng chúng san sẽ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng đang sống
sướng trên núi bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ hợp tác chia phần, nên
chỉ cần đảng làm giàu mà thôi , còn nhân quyên, tự do dân chủ.. coi như là
cỏ rác.
Suốt tháng nay, từ VN cho tới hải ngoại, bất cứ nơi chốn nào có người Việt
sinh sống, cũng đều sôi sục phong trào đã đảo VC bán nước cho Tàu , đồng thời
cũng dấy lên sự chống đối quyết liệt Trung Cộng cướp chiếm hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của VN, nay được giặc công khai đổi thành một đơn vị hành
chánh mang tên Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam.
Sự kiện lịch sử trên đã làm cho bọn chóp bu Bắc Bộ Phủ kinh hoàng, trước
những cuộc biểu tình của Thanh niên, Sinh viên, Học sinh và Đồng bào tại Hà
Nội , Sài Gòn. Đảng một mặt ra lệnh cho công an đàn áp nhưng vẫn không quên
lợi dụng thời cơ kêu gọi người Việt trong và ngoài nước phải đứng dưới ngọn
cờ máu của đảng để được yêu nước chống Tàu.
Tại Hải Ngoại, bọn thời cơ cũng hùa gió bẻ măng, kêu gọi người Việt Tị Nạn
phải đứng chung với VC dưới ngọn cờ máu, để chống Tàu. Câu chuyện lạ lùng
trên làm cho mọi người sực nhớ lại giai đoạn lịch sử năm 1046, khi Hồ Chí
Minh một mặt cho Pháp đổ quân vào đất Bắc, để có cớ kêu gọi toàn dân đứng
chung dưới lá cờ búa liềm chống Pháp .Trò bịp bợm lần nữa lại tái diễn qua
lời kêu gọi đứng chung dưới cờ máu của đảng để chống Tàu đòi lại Hoàng Sa,
Trường Sa do chính Hồ Chí Minh ký nhượng cho giặc năm 1958.
Tới nay mà vẫn còn những loại sâu bọ như vậy, hèn chi đất nước chúng ta cứ
tiếp tục bị giặc Tàu lần hồi thôn tính bởi lòng dân cả nước, còn được mấy
ai ngu chịu làm bia đở đạn Tàu, để VC cứ lại tiếp tục bán nước?Xóm Cồn
Cuối tháng 12-2007
(Vietbao.com) |