BIỂN VIỆT
NAM
.
Thông thường, theo Công Pháp Quốc Tế, nếu lãnh thổ quốc gia có vùng biển bao bọc hoàn toàn hay một phần thềm lục địa, thì vùng lãnh hải liên hệ thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Địa thế Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, bờ biển trải dài hơn hai ngàn năm trăm cây số (2.500 km), từ ranh giới tỉnh Hải Ninh, giáp giới Trung Hoa, đến huyện Dương Đông, thuộc đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá).
Sau khi, một kỷ sư người Anh, Watt James, con vị chủ xưởng đóng tàu biển Clydeside, phát minh ra máy chạy bằng hơi nước (steam
engine). Và, vị kỷ sư này hợp tác với một doanh nhân, M Boulton, quê ở Birmingham, nhằm phát triển sáng kiến chế tạo sản phẩm máy hơi nước, được đặt tên là Watt engine, vào năm 1790, đã trở thành cuộc cách mạng công nghiệp chủ yếu, pump water được áp dụng vào mọi ngành công nghiệp nặng trong các xưởng công nghiệp bông gòn, nhà máy giấy, nhà máy bột mì v. v… Cuộc cách mạng hàng hải Phương Tây cũng nổ ra. Lúc đầu, các quốc gia như Tây-Ban-Nha, Bồ-Đào-Nha, Hà-Lan, Anh, Pháp… dùng tàu thuyền chuyên chở hàng hóa, đi tìm các lục địa phương xa để trao đổi mua, bán, thuần túy cho mục đích mậu dịch. Dần dần các giáo sĩ Tây Phương cũng men theo con đường mòn này mà truyền bá tôn giáo. Xa hơn nữa, đi đến tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa, đô hộ các dân tộc địa phương, mở ra thời đại thực dân, phong kiến mới. Họ tự do hoạch định, đặt tên gọi, phân phối lãnh thổ, lãnh hải của các quốc gia bị trị. Điều đó, di truyền đến hôm nay, những điều bất hợp pháp và bất hợp lý, là vùng biển gọi là “South China”, nằm dài theo ven biển Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa phát sinh quan niệm sai lầm cho người Trung Hoa, họ cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là “Nam Sa và Tây Sa” thuộc chủ quyền của Trung Hoa. Vấn đề này đã nảy sinh ra sự tranh chấp triền miên, chưa giải quyết được ổn thỏa các quốc gia tranh chấp trong vùng biển Đông.
Việt
Nam
có chiều dài lịch sử bị Trung Hoa đô hộ ngàn năm. Do đó, văn hóa Việt
Nam
bị nhiều ảnh hưởng sâu đậm về nền văn hóa Trung Hoa, về mọi phong tục, tập quán. Thí vụ: tục đốt giấy tiền vàng bạc, nhà mả, của cải, vật dụng cho người chết… Thờ cúng thần linh như các quan võ trong truyện Tam- Quốc- Chí của Trung Hoa như: Quan-Công, Châu-Xương, Quang-Bình v.v… Nếu phải thờ những vị công quốc thần linh vì lòng kính mến, dân tộc chúng ta không hiếm, như Đức Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hai Bà Trưng… Khi còn bé, phần đông, chúng ta được ông bà (các thế hệ tiền bối) bảo rằng, hễ thấy giấy báo gì có chữ Tàu, là phải lượm lên cách kính cẩn, không nên chà đạp dưới chân, vì nó là “chữ thánh”. Còn nhiều nữa, những phong tục tập quán lỗi thời cổ hủ, mê-tín-dị-đoan, đã ăn quá sâu trong lòng dân tộc. Thậm chí, Tết cũng theo Tết Trung Hoa. Hàng năm, mỗi lần Tết đến, các đài truyền thanh, truyền hình quốc tế, thường loan
tin: “Chinese’ s New Year”, chứ ít khi được biết là Tết Việt
Nam
.
Nói tóm lại, người Trung Hoa, dân số đông đảo đến mức sinh ra nạn nhân mãn, trở thành dân du mục. Họ rời quê hương xứ sở với hai bàn tay trắng, thường mưu sinh bằng mọi ngành nghề, nhất là thương mãi. Họ tận dụng mọi sánh kiến phát sinh, miễn sao thu được lợi nhuận nuôi sống bản thân và gia đình. Mọi phong tục tập quán hủ hóa mà họ truyền cho người bản xứ, chỉ có mục đích thương mãi mà thôi. Vậy, quan niệm thâm căn cú đế này của thế hệ “tiền bối” ông bà, có đúng để duy trì nữa không?
Ở đây, vấn đề trọng yếu, không phải là đoạn bài viết vừa nêu trên, mà là việc phải đổi tên vùng biển Đông, thuộc lãnh hải của đất nước, thành BIỂN
VIỆT NAM (Vietnam Sea). Bởi vì, biển Đông không phải là cái ao của Trung Hoa. Đây cũng là một trong phương cách tách rời ảnh hưởng ngoại bang, giữ nền Độc-Lập Dân-Tộc.
Hải ngoại, mùa Xuân năm Ất Dậu, 2005.
MẠC THÚY HỒNG
Tạp Chí LẠC VIỆT
( Me
Viet Nam.org )
Hội Nghị Diên Hồng
Sáng tác: Lưu Hữu Phước
Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà
nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển
Tuông giày non sông rền vang tiếng vó câu
Gây oán nghìn thu
Toàn dân Tiên Long! Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Nên hòa hay chiến?
Diên Hồng tâu lên cùng Minh đế báo ân
Hỡi đâu tứ dân!
Kìa vừng hồng tràn lan trên
đỉnh núi
ôi Thăng Long! Khói kinh kỳ phơi phới
Loa vang vang, chiếu ban truyền bốn hương
Theo gió bay khắp miền sông núi réo đời.
Lòng dân Lạc Hồng nhìn non
nước yêu quê hương
Giống anh hùng nâng cao chí lớn
Giống anh hùng đua sức tráng cường.
Ta lên đường lòng mang tâu đến long nhan
Giòng Lạc Hồng xin thề liều thân liều thân!
Đường còn dài
Hờn vương trên quan tái
Xa xa trông áng mây đầu non đoài
Trông quân Nguyên tàn phá non
sông nhà
Đoạt thành trì toan xéo giày lăng miếu
Nhìn bao quân Thoát lấn xâm tràn nước ta
ôi sông núi nhà rền tiếng muôn dân kêu la
(Hỏi) Trước nhục nước nên hòa
hay nên chiến?
(Đáp) Quyết Chiến!
(Hỏi) Trước nhục nước nên hòa
hay nên chiến?
(Đáp) Quyết Chiến!
Quyết chiến luôn
Cứu nước nhà
Nối chí dân hùng anh
(Hỏi) Thế nước yếu lấy gì lo
chiến chinh?
(Đáp) Hy Sinh!
(Hỏi) Thế nước yếu lấy gì lo
chiến chinh?
(Đáp) Hy Sinh!
Thề liều thân cho sông núi
Muôn Năm Lừng Uy!!